Em hãy Phân Tích Tính dân tộc trong bài thơ Việt Bắc của Tố Hữu
7/1/2023 7:59:13 PM
tuyenn10 ...

Phân Tích Tính dân tộc trong bài thơ Việt Bắc  của Tố Hữu 1

Bài thơ Việt Bắc là đỉnh cao của thơ Tố Hữu và cũng là một thành tựu quan trọng của thơ ca kháng chiến chống Pháp. Bài thơ được Tố Hữu sáng tác vào tháng 10 năm 1954 nhân một sự kiện lịch sử: Trung ương Đảng và chính phủ rời chiến khu về thủ đô Hà Nội. Từ điểm xuất phát ấy bài thơ thể hiện tình gắn bó thắm thiết giữa người ra đi và người ở lại, giữa miền xuôi và miền ngược, giữa người cán bộ với Việt Bắc quê hương của cách mạng, với đất nước và nhân dân, với Đảng và Bác Hồ, với cuộc kháng chiến đã thành kỉ niệm sâu nặng trong tâm hồn.

Như thế nghĩa là trong niềm vui thắng lợi và đón nhận cuộc sống thanh bình nhà thơ vẫn không quên tình nghĩa gắn bó trong những năm gian khổ đã qua và coi đây là cội nguồn sức mạnh tinh thần to lớn cho những ngày hiện tại và tương lai. Có thể nói, bài thơ Việt Bắc là khúc tình ca và cũng là khúc hùng ca mà cội nguồn sâu xa của nó là tình cảm quê hương đất nước, là truyền thống ân nghĩa, đạo lý thuỷ chung của dân tộc.

Trước hết với kiểu kết cấu đối đáp rất đậm đà tình nghĩa của bài thơ Việt Bắc là tình yêu với thiên nhiên đất nước được biểu hiện cụ thể qua sự gắn bó với núi rừng Việt Bắc trong nỗi nhớ của người cán bộ sắp về xuôi. Cảnh Việt Bắc hiện ra những vẻ đẹp hiện thực và thơ mộng, thi vị gợi rõ nét độc đáo của Việt Bắc so với nhiều miền quê khác của đất nước. Việt Bắc đó là hình ảnh: "Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương", hình ảnh bản làng mờ trong sương sớm, những bếp lửa hồng trong đêm khuya, là những "rừng nứa bờ tre, sông Đáy" là tiếng mõ trâu về trong rừng chiều, tiếng "Chày đêm nện cối đều đều suối xa".

Nhưng có lẽ nổi bật nhất là nỗi nhớ của Tố Hữu về Việt Bắc là sự hòa quyện với người, là ấn tượng không thể phai mờ về những người dân Việt Bắc cần cù trong lao động, thuỷ chung trong nghĩa tình:

Ta về mình có nhớ ta
...
Nhớ ai tiếng hát ân tình thuỷ chung.

Qua đó có thể thấy thiên nhiên Việt Bắc hiện ra với những vẻ đẹp phong phú, đa dạng, thay đổi theo thời tiết, từng mùa. Gắn với cảnh tượng ấy là con người giản dị, người đi làm nương rẫy, người đan nón, người hái măng. Bằng những việc làm tưởng chừng nhỏ bé của mình họ đã góp phần tạo ra sức mạnh vĩ đại của cuộc kháng chiến. Chính tình nghĩa gắn bó và san sẻ cùng nhau chịu đựng gian khổ thiếu thốn, cùng nhau gánh vác nhiệm vụ nặng nề, khó khăn giữa nhân dân với bộ đội và cán bộ tất cả càng làm cho hình ảnh Việt Bắc sáng ngời trong hồi tưởng của nhà thơ. Việt Bắc - đó là hình ảnh những mái nhà "Hắt hiu lau xám, đậm đà lòng son", hình ảnh người mẹ "Địu con lên rẫy bẻ từng bắp ngô", là những ngày tháng đồng cam cộng khổ:

Thương nhau chia củ sắn lùi
Bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng

Có thể nói âm hưởng trữ tình vang vọng suốt bài thơ tạo nên khúc ca ngọt ngào, đằm thắm của tình yêu đồng chí với đồng bào, của tình yêu thiên nhiên, yêu đất nước, yêu đời.

Theo dòng hồi tưởng của Tố Hữu bài thơ dẫn ta vào khung cảnh Việt Bắc chiến đấu với những hình ảnh hào hùng, những hoạt động sôi nổi, những âm thanh náo nức, phấn chấn. Ở đây bài thơ tràn đầy âm hưởng anh hùng ca mang dáng vẻ sử thi hiện đại bởi vì chỉ cần miêu tả khung cảnh hùng tráng của Việt Bắc, Tố Hữu đã nêu bật khí thế chiến đấu vô cùng mạnh mẽ của dân tộc.

Những đường Việt Bắc của ta
Đêm đêm rầm rập như là đất rung
Quân đi điệp điệp trùng trùng
Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan
Dân công đỏ đuốc từng đoàn
Bước chân nát đá, muôn tàn lửa bay.

​ Dân tộc ấy đã vượt qua bao gian khổ hi sinh để lập nên những kì tích, những chiến công, đèo Giàng, sông Lô, phố Ràng, Hòa Bình, Tây Bắc, Điện Biên. Nhưng Tố Hữu không thể miêu tả diễn biến của cuộc kháng chiến mà chỉ còn đi sâu vào lý giải những cội nguồn sức mạnh đã dẫn tới chiến thắng. Đó là sức mạnh của lòng căm thù: Miếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai, sức mạnh tình nghĩa thủy chung: "Mình đây ta đó, đắng cay ngọt bùi" nhất là sức mạnh của khối đoàn kết toàn dân, của sự hòa quyện gắn bó giữa con người với thiên nhiên. Tất cả tạo thành hình ảnh "đất nước đứng lên".

Nhớ khi giặc đến giặc lùng
Rừng cây núi đá ta cùng đánh Tây
Núi giăng thành lũy sắt dày
Rừng che bộ đội, rừng vây quân thù
Mênh mông bốn mặt sương mù
Đất trời ta cả chiến khu một lòng.

Đặc biệt bằng những lời thơ trang trọng mà tha thiết Tố Hữu đã đi sâu nhấn mạnh, hình ảnh và vai trò của Việt Bắc như là quê hương của cách mạng, căn cứ vững chắc của cuộc kháng chiến. Trong những năm đen tối trước cách mạng, hình ảnh Việt Bắc hiện dần từ mờ xa "mưa nguồn suối lũ, những mây cùng mù" cho đến xác định như chiến khu kiên cường nơi nuôi dưỡng bao sức mạnh đấu tranh, nơi sản sinh nhiều địa danh đã đi vào lịch sử dân tộc.

Mình về có nhớ núi non
Nhớ khi kháng Nhật, thuở còn Việt Minh
Mình đi mình có nhớ mình
Tân Trào, Hồng Thái, mái đình, cây đa.

Trong những năm tháng kháng chiến gian lao Việt Bắc là nơi có "cụ Hồ soi sáng", có Trung ương, Chính phủ luận bàn việc công để kiên định niềm tin yêu của cả nước đối với Việt Bắc, Tố Hữu lại dùng những câu thơ mang sắc thái ca dao dạt dào những âm hưởng nghĩa tình của hồn thơ dân tộc.

Ở đâu đau đớn giống nòi
Trông về Việt Bắc mà nuôi chí bền
Mười lăm năm ấy ai quên
Quê hương cách mạng dựng nên cộng hòa.

​ Từ tình cảm yêu mến, gắn bó với cảnh và người Việt Bắc từ niềm tin tưởng vững chắc vào sức mạnh của nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng và Bác Hồ, Tố Hữu vẽ ra viễn cảnh tươi đẹp của Việt Bắc ngày mai trong khung cảnh xây dựng cuộc sống mới hòa bình, phồn vinh.

Ngày mai rộn rã sơn khê
Ngược xuôi tàu chạy, bốn bề lưới giăng
Than Phấn Mễ, thiếc Cao Bằng
Phố phường như nấm như măng giữa trời.

Những hình ảnh ấy là mơ ước, khát vọng và cũng là tình nghĩa mà những người cán bộ kháng chiến muốn đền đáp nơi từng là cội nguồn của cách mạng, nơi đã cưu mang, che chở họ trong những ngày đầy gian nan hi sinh.

Đặc biệt ở những dòng cuối cùng của bài thơ người đọc càng hiểu sâu thêm sự sắc sảo, nhạy bén của bài thơ Tố Hữu khi hướng về ngày mai, nhà thơ không quên, một nét đẹp trong đạo lý truyền thống của dân tộc đó là tình nghĩa thuỷ chung, có mới mà không nới cũ, luôn nghĩ đến nhau và vì nhau giữa miền xuôi và miền ngược, giữa cán bộ và nhân dân của mình.

Mình về thành thị xa xôi
Nhà cao còn thấy núi đồi nữa chăng?
Phố đông còn nhớ bản làng
Sáng đèn còn nhớ mảnh trăng giữa rừng?

Có thể coi đây là lời cảnh báo về sự tha hoá khi có sự thay đổi môi trường, khi người ta có thể quên đi tất cả tình nghĩa năm xưa để chỉ nghĩ đến mình và vì mình. Cho đến hôm nay những lời thơ ấy của Tố Hữu vẫn giữ nguyên ý nghĩa thời sự chứ không hề cũ xưa.

Tính dân tộc là đặc điểm nổi bật ở Việt Bắc. Chính đặc điểm này đã tạo nên sức hấp dẫn của bài thơ. Tính dân tộc của bài thơ đã giúp nhà thơ chuyển tải được tư tưởng hiện đại, tiên tiến. Đây là một tác phẩm thành công nhất của Tố Hữu, một tác phẩm đã ngợi ca những ngày hào hùng vẻ vang của dân tộc, những ngày mà toàn dân nô nức ra trận, những ngày mà mảnh đất Việt Bắc in dấu bao thời khắc, chiến công hào hùng, tươi đẹp của dân tộc. Tất cả đều được tái hiện trong một hình thức đặc biệt phù hợp mà Tố Hữu đã lựa chọn và sử dụng. Rõ ràng, bài thơ Việt Bắc đã mang tinh thần và tư tưởng của thời đại nhưng người ta có thể ngân ngợi như những bài ca dao.

Phân Tích Tính dân tộc trong bài thơ Việt Bắc  của Tố Hữu 2

Tố Hữu là một trong những gương mặt tiêu biểu của nền thơ ca cách mạng Việt Nam. Cuộc đời của ông trong thơ Tố Hữu có thể được miêu tả như một sự cống hiến không ngừng cho sự nghiệp cách mạng của dân tộc. Vì vậy, phần lớn sáng tác của nhà thơ thường gắn liền với những tư tưởng lớn, lẽ sống, sự kiện trọng đại của đất nước, đặc biệt là những tác phẩm mà ông đã truyền cảm hứng cho dân tộc. Chúng trở lên sâu lắng, cân bằng và trường tồn theo thời gian. Việt Bắc là một trong những tác phẩm như thế.

Đánh giá về tính dân tộc đậm đà trong Việt Bắc, có ý kiến cho rằng tính dân tộc là một trong những phẩm chất vốn có ở bài thơ Việt Bắc của Tố Hữu. Vậy trước tiên tính dân tộc trong văn học là gì? tính dân tộc là một thuộc tính của văn học phản ánh của đời sống mỗi dân tộc, mang lại cho tác phẩm văn học một bản nhạc dân tộc độc đáo, không thể trộn lẫn. Với khái niệm như trên có thể khẳng định, "Việt Bắc" có đầy đủ các tiêu chí để trở thành một thi phẩm đậm đà tính dân tộc, trên tất cả các mặt từ nội dung, đến nghệ thuật.

Trước nhất về đề tài Việt Bắc đề cập tới một sự kiện chính trị lớn lao của dân tộc, đó là vào thời điểm chiến dịch Điện Biên Phủ kết thúc thắng lợi hiệp định Giơnevơ về Đông Dương được ký kết, hòa bình lập lại, miền Bắc nước ta được giải phóng và bắt tay vào sự nghiệp xây dựng cuộc sống mới. Tháng 10 năm 1945 những người kháng chiến từ căn cứ miền núi trở về miền xuôi, trung ương Đảng và Chính phủ rời chiến khu Việt Bắc về lại thủ đô nhân sự kiện có tính lịch sử ấy Tố Hữu đã sáng tác Việt Bắc. Như vậy sự ra đời của Việt Bắc gắn bó với lịch sử dân tộc, mốc son chói lọi trong lịch sử dân tộc Việt Nam, ghi dấu thời kỳ chuyển mình của đất nước mở ra một trang sử huy hoàng cho dân tộc Việt Nam, cho nên có thể thấy tính dân tộc trong Việt Bắc thể hiện ngay ở đề tài.

Thứ hai về nội dung bài thơ Việt Bắc đã tái hiện vẻ đẹp ấn tượng của thiên nhiên núi rừng Việt Bắc qua đó nhằm tôn vinh Vẻ đẹp thơ mộng và hùng vĩ của tổ quốc ta trong Việt Bắc có đoạn Tố Hữu viết.

"Ta về mình có nhớ ta,
Ta về ta nhớ những hoa cùng người,
Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi,
Đèo cao nắng ánh dao cài thắt lưng,
Ngày xuân mơ nở trắng rừng,
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang,
Ve kêu rừng phách đổ vàng,
Nhớ cô em gái hái măng một mình,
Rừng thu trăng rọi Hòa Bình,
Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung".

Thiên nhiên Việt Bắc thật đẹp đẽ, hài hòa biết bao, cảnh sắc thiên nhiên thay đổi, biến đổi theo từng mùa, phong cảnh mỗi mùa đều mỹ lệ mà thanh nhã có nét đặc biệt riêng không thể trộn lẫn. Mùa xuân khoác lên mình tà áo choàng màu trắng tinh khiết, trắng của hoa mơ. Sắc trắng của hoa mơ đem đến cho không gian mùa xuân một vẻ đẹp thanh tao, thuần khiết mà vẫn giữ được cái trong trẻo, thoáng đãng, phóng khoáng rất đặc trưng của thiên nhiên vùng sơn cước và khi mùa xuân qua, hạ tới Việt Bắc lại khoác lên mình một phong thái mới, một khí chất riêng. Vẫn là tiếng ve kêu quen thuộc báo hiệu hè về, nhưng không chỉ có vậy về Việt Bắc còn gây ấn tượng bởi màu vàng của rừng phách, hãy tưởng tượng chỉ 1 phút chốc cả không gian như bùng nở bởi sắc vàng uy quyền của hoa phách, ta mới thấy hết được cái bạt ngàn hùng vĩ và khác biệt của nơi đây, và đây là vẻ đẹp của mùa thu Việt Bắc. Thu đẹp mê hồn, huyền bí trong những đêm trăng mờ ảo, nhưng trong Việt Bắc là đặc sản của nơi đây, đó là ánh trăng của hòa bình, tĩnh lặng, bình yên là thứ ánh sáng dịu nhẹ mang theo hơi thở của nhịp sống thanh bình của hi vọng, niềm tin. Nếu như xuân nồng nàn, thuần khiết, hạ bạt ngàn kiêu sa, thì vẻ đẹp của mùa thu mang thiên hướng thanh nhẹ, tinh tế như lấy đi mọi thứ vội vã, ồn ào của cuộc sống thường nhật. Chuyển sang cảnh sắc những ngày mùa đông, cả rừng Việt Bắc bạt ngàn trong sắc xanh, điểm xuyết trên nền cây lá là màu đỏ rực rỡ của những bông hoa chuối rừng, điểm nổi bật là mùa đông ở Việt Bắc không lạnh lẽo giá băng mà thật ấm áp, long lanh và căng tràn sức sống. Đó là điểm rất riêng, có lẽ chỉ ở Việt Bắc thiên nhiên đẹp như vậy. Thế nên mới khiến con người nhung nhớ, chẳng lỡ rời xa. Ngòi bút của Tố Hữu như tập trung tối đa những từ ngữ đẹp nhất, kết tinh cho vẻ đẹp độc đáo, đa dạng, hút mắt của thiên nhiên Việt Bắc. Tái hiện khơi gợi và làm sống dậy vẻ đẹp tự nhiên của đất nước qua từng lời thơ, con chữ, một lần nữa tính dân tộc đậm đà được thể hiện rõ trong Việt Bắc.

Tính dân tộc của thi phẩm đặc sắc này còn được thể hiện qua sự ngợi ca tự hào của tác giả, về cuộc kháng chiến trường kỳ của dân tộc. Tố Hữu đã gợi nhắc lại lịch sử hào hùng một cách vừa hiện thực, vừa lãng mạn, sự kết hợp này vừa khéo hài hòa lại cân đối, ngôn từ thơ như thổi bùng ngọn lửa tự hào của độc giả về Tổ quốc Việt Nam.

"Những đường Việt Bắc của ta,
Đêm đêm rầm rập như là đất rung,
Quân đi điệp điệp trùng trùng,
Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan,
Dân công đỏ đuốc từng đoàn,
Bước chân nát đá muôn tàn lửa bay,
Nghìn đêm thăm thẳm sương dày".

Trong không gian của núi rừng hùng vĩ, chất chứa đầy những hiểm nguy, rình rập. Quân ta ngày đêm chuẩn bị cho cuộc chiến, những cuộc hành quân trong đêm dài khí thế của quân và dân ta, được tái hiện thật hoành tráng, oai hùng với lực lượng đông đảo, khí phách hiên ngang, tinh thần quả cảm và dũng khí ngất trời. Những bước chân tiến quân bỗng chốc trở nên phi thường, có sức mạnh vô song, có khả năng nghiền nát cả đất đá, rung chuyển cả đất trời. Đây không chỉ là một cuộc hành quân ở Việt Bắc, mà còn thực sự mang theo không khí, linh hồn, khí chất của cả dân tộc Việt Nam. Một dân tộc đứng lên như vũ bão, thác đổ mà không một kẻ thù nào đánh bại được, như thông qua cuộc hành quân mang vẻ đẹp huyền thoại trong Việt Bắc, Tố Hữu đã ngầm ca ngợi, tôn vinh cuộc kháng chiến trường kỳ của dân tộc Việt. Từ đó khơi gợi lòng yêu nước, yêu tổ quốc, hay gợi niềm tự hào về đất nước của mỗi người. Làm được điều này, một lần nữa khẳng định tính dân tộc là một phẩm chất vốn có ở Việt Bắc.

Bên cạnh vẻ đẹp của thiên nhiên núi rừng Tố Hữu không quên ngợi ca vẻ đẹp truyền thống của con người Việt Nam Đó là những con người chăm chỉ cần cù Chịu thương chịu khó trong lao động họ đã góp một phần sức của mình vào công cuộc kháng chiến anh hùng của tổ quốc hình ảnh người mẹ bất chấp mệt nhọc địu con lên rẫy làm nương để bắp hiện lên thật cảm động chân thực qua ngòi bút của Tố Hữu.

"Nhớ người mẹ nắng cháy lưng,
Địu con lên rẫy bé từng bắp ngô".

Con người nơi đây rất chân thành, giản dị và chất phát, cuộc sống tần tảo nhưng dường như chưa bao giờ họ hết yêu lao động, miệt mài, cần mẫn và kiên trì hơn ai hết. "Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang", "Nhớ cô em gái hái măng một mình", thêm nữa xuyên suốt tác phẩm Tố Hữu còn làm nổi bật sự thủy chung, nghĩa tình của con người Việt Bắc. Cũng là vẻ đẹp truyền thống của con người Việt Nam ta, đó là những khi nhân dân đồng cam cộng khổ, chia sẻ khó khăn, hoạn nạn với cách mạng.

"Thương nhau chia củ sắn lùi,
Bát cơm sẻ nửa chăn sui đắp cùng".

Là những ngày tháng dài tình bên, nghĩa trọn, trước sau như một.

"Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung".

Thêm nữa người dân Việt Bắc còn là những tâm hồn rất lạc quan, yêu đời, "gian nan đời vẫn ca vang núi đèo". Vậy đó con người nơi đây là vậy, gian khổ thì đã sao, với họ mỗi một ngày gắn bó với cách mạng là một ngày vui, thế nên dẫu cuộc sống còn nhiều vất vả, lam lũ họ vẫn vô tư ca vang, tin tưởng vào một tương lai tươi sáng. Không khó để thấy tất cả các phẩm chất, từ chăm chỉ, chịu khó, yêu lao động, đến thủy chung son sắc, lạc quan yêu đời của con người Việt Bắc đều hoàn toàn trùng khớp với những đức tính tốt đẹp của con người Việt Nam xưa nay. Điều đó có nghĩa là Việt Bắc đã rất thành công trong việc tái hiện lại và tôn vinh cái hồn của dân tộc, thông qua hình ảnh con người nơi đây, cũng chính điều đó làm cho khoảng cách giữa độc giả và tác phẩm trở nên gần gũi hơn, sự đồng điệu bắt đầu từ đây, tính dân tộc đậm đà cũng từ đây mà được bộc lộ rõ nét.

Về hình thức Việt Bắc sử dụng thể thơ lục bát, thể thơ truyền thống của dân tộc, hơn nữa lục bát của Việt Bắc gần giống với lục bát của ca dao kết hợp với lối nói tiểu đối tạo cho bài thơ thêm âm hưởng thiết tha, da diết như len sâu vào lòng người. Tố Hữu cũng khéo léo khi vận dụng cách nói đối đáp, giao duyên rất phổ biến trong ca dao dân tộc Việt Nam, để bộc lộ những tư tưởng, tình cảm tâm sự. Bên cạnh đó tác giả đã cực kỳ tinh tế, khéo léo khi vận dụng và kết hợp sử dụng các đại từ nhân xưng "mình, ta", mình ta lúc là hai, lúc là một, soi chiếu tình cảm lẫn nhau, quyện hòa vào nhau khiến cho nhịp thơ đong đầy tình, nghĩa, ngôn ngữ thơ cũng rất mộc mạc, đơn sơ, không cầu kỳ, độc đáo, cũng không tráng lệ phi phàm, làm mọi thứ dường như chỉ dừng lại ở mức lời ăn, tiếng nói hằng ngày. Cách nói ví von, những câu thành ngữ, ca dao được sử dụng vừa hài hòa, vừa triệt để đã tạo cho Việt Bắc một bản sắc dân tộc Việt sâu sắc, thể hiện cả trên bề mặt chữ lẫn chiều sâu. Cuối cùng là cách tác giả phát huy cao độ tính nhạc của tiếng Việt, các câu thơ đọc rất phù hợp với mặt trái của thể thơ, của cảm xúc, nhịp thơ tự do, tha thiết, không gò bó và rất dễ thuộc, dễ nhớ. Đóng góp vào thành công ấy không thể không kể đến vai trò của hệ thống từ láy linh hoạt, phong phú, độc đáo suốt dọc chiều dài của tác phẩm. Chính nhờ có điều này mà thơ Việt Bắc không thể khô khan, kích thích người đọc tiếp nhận tác phẩm. Như vậy, toàn bộ hình thức của Việt Bắc là minh chứng không thể rõ ràng hơn về tính dân tộc của tác phẩm.

Vậy nhận định ban đầu là một ý kiến hoàn toàn đúng đắn, có cơ sở đầy khẳng định được giá trị nổi bật của Việt Bắc là tính dân tộc, cũng chính tính dân tộc này đã tạo cho Tố Hữu một phong cách sáng tác riêng mang phong cách, dấu ấn của riêng ông, không thể trộn lẫn giữa các dòng chảy của văn học hiện đại. Đồng thời còn là sự ghi nhận tài năng tài chính của Tố Hữu khi sử dụng ngôn từ để tái hiện hồn cốt dân tộc. Một điều mà ít, rất ít nhà thơ làm được hoàn hảo, bởi vậy là hoàn toàn xứng đáng khi nói tính dân tộc đã làm Việt Bắc rất cao và chói sáng trên thi đàn Việt Nam.

Nhìn chung tính dân tộc không phải là yếu tố độc nhất của một thi phẩm hay, nhưng có lẽ chỉ có nó mới có thể tạo được sức sống lâu bền cho tác phẩm. Nếu như tất cả các tác phẩm đều có thể dung hòa tính dân tộc sâu sắc, với cái mới, cái hay, cái độc đáo, sáng tạo của cá nhân tác giả, thì chắc chắn sẽ ngày càng có nhiều hơn nữa những bài thơ hay, làm đẹp cho đời sống hôm nay và mai sau.

Phân Tích Tính dân tộc trong bài thơ Việt Bắc  của Tố Hữu 3

Trong văn học, tính dân tộc được thể hiện ở cả nội dung cũng như hình thức nghệ thuật. Về nội dung, một tác phẩm mang tính dân tộc phải thể hiện được những vấn đề nóng bỏng liên quan đến vận mệnh dân tộc, đồng thời thể hiện tình cảm, khát vọng và ý chí của một dân tộc. Về hình thức, tác phẩm giàu tính dân tộc đó tiếp thu một cách sáng tạo tinh hoa văn hóa của dân tộc. Với cách hiểu trên thì thơ Tố Hữu mang phong cách nghệ thuật đậm đà bản sắc dân tộc.

Tính dân tộc trong bài Việt Bắc được thể hiện qua cả giá trị nội dung và nghệ thuật. Ở góc độ nội dung, tính dân tộc trong bài Việt Bắc thể hiện qua những tình cảm lớn với con người cũng như bức tranh thiên nhiên nơi Việt Bắc. Tình cảm thể hiện trong bài thơ bên cạnh nghĩa tình cách mạng sâu đậm của thời đại mới – tình cảm dành cho Đảng, cho Bác thường thấy trong thơ ca viết về kháng chiến, còn là sự hòa nhập và tiếp nối vào nguồn mạch những đạo lí ân tình thủy chung truyền thống của dân tộc.

Điều này thể hiện qua cảnh chia tay đầy lưu luyến, qua hình ảnh người Việt Bắc tuy khó khăn về vật chất nhưng giàu tình nghĩa, tràn đầy lạc quan, tin tưởng. Cảnh chia tay đầy lưu luyến giữa người cán bộ về xuôi và người Việt Bắc

“Mình về mình có nhớ ta
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng
Mình về mình có nhớ không
Nhìn cây nhớ núi nhìn sông nhớ nguồn”

Được xây dựng dựa trên nỗi nhớ, tác giả đã hóa thân vào nhân vật trữ tình – người cán bộ về xuôi để nhớ lại quá khứ nghĩa tình. Từ đó, bộc lộ sự biết ơn, nhớ thương của nhân dân, cách mạng kháng chiến. Tố Hữu tại hiện nỗi nhớ thông qua cảnh chia tay. Khung cảnh ấy hiện lên đầy bịn rịn, đau đớn cũng như tiếc thương. Hai nỗi nhớ của người ra đi và người ở lại.

Mỗi nỗi nhớ mang một sắc thái khác nhau. Nỗi nhớ của người ra đi dường như nhẹ nhàng hơn. Vì họ ra đi nhưng trở về với gia đình, với sự nghiệp hoài bão của mình. Còn người ở lại mang một nỗi nhớ sâu đậm hơn. Bởi lẽ sau cuộc chia tay này, họ sẽ khó có thể gặp lại nhau.

Chính vì điều đó mà tác giả đã để cho người ở lại cất tiếng trước. Nỗi nhớ bật lên thành lời ướm hỏi: Liệu sau này ta còn nhớ nhau. “Mười lăm năm” chính là mười lăm năm cùng nhau gắn bó san sẻ biết bao vui buồn. Khoảng thời gian ấy đã để lại một ký ức sâu nặng trong lòng mỗi người. Tác giả dùng cặp đại từ xưng hô quen thuộc “mình – ta” nhằm thể hiện tình cảm gắn bó sâu nặng, khăn khít giữa Việt Bắc và người cán bộ cách mạng, khái quát lại một giai đoạn lịch sử gian khổ gắn với Việt Bắc, đồng thời khắc sâu tình cảm “thiết tha mặn nồng” trải dài theo năm tháng.

Phân tích tính dân tộc trong bài Việt Bắc, người đọc nhận thấy “Cây – núi – sông – nguồn” là những hình ảnh thể hiện đặc trưng của Việt Bắc. Các hình ảnh sóng đôi từng cặp, kết cấu lặp – trùng điệp gợi lên một tình cảm gắn bó giao hòa. “Núi” và “nguồn” là cội nguồn của thiên nhiên, gợi nhớ đến cội nguồn của kháng chiến – Việt Bắc. Các từ “thiết tha”, “mặn nồng” thể hiện bao ân tình gắn bó. Chiến thắng hôm nay có được từ nền tảng của quá khứ. Điệp từ “nhớ” xuất hiện cùng với những lời nhắn nhủ của người Việt Bắc “mình có nhớ ta”, “mình có nhớ không”. Những lời nhắn nhủ cất lên tha thiết xoáy sâu vào tâm can.

“Tiếng ai tha thiết bên cồn
Bâng khuâng trong dạ bồn chồn bước đi”

Đại từ phiếm chỉ “ai” tưởng chừng mông lung vô định nhưng lại hướng đến một đối tượng xác định. Đó là người ở lại. Nếu ở bốn câu thơ trên người ở lại “thiết tha” thì giờ người ra đi lại “tha thiết”. Từ láy “bâng khuâng” gợi một tâm trạng cảm xúc mơ hồ xao động. Quyến luyến nhẹ nhàng nhưng man mác.

Lòng “bâng khuâng” nên bước đi “bồn chồn”. Từng bước chân như ngập ngừng nửa muốn đi nửa lại muốn ở. Lời người đi đáp lại cho người ở lại. Tiếng lòng đáp trả tiếng lòng. Hồi ức được thể hiện qua tiếng hát chia ly.

“Áo chàm đưa buổi phân ly
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay”

Phân tích tính dân tộc trong bài Việt Bắc, ta thấy nghệ thuật hoán dụ “áo chàm” gợi hình ảnh người Việt Bắc. Màu áo quen thuộc của đồng bào Việt Bắc, màu bền chặt của nghĩa tình chung thủy, xuất hiện như để nói rằng ngày chia tay cán bộ kháng chiến về xuôi cả nhân dân Việt Bắc cùng đưa tiễn. Tuy không trực tiếp trả lời câu hỏi của người ở lại nhưng tâm trạng “bâng khuâng”, “bồn chồn” cùng cử chỉ “cầm tay nhau” đã nói lên cảm xúc sâu lắng ấy.

“Cầm tay nhau không biết nói gì” có lẽ không còn gì để nói. Bởi họ đã thấu hiểu nên chỉ cần ánh mắt, cái nắm tay đã thay cho lời nói. Không khí im lặng lúc này thật đáng quý biết bao. Câu thơ bỏ lửng, ngập ngừng đã diễn tả chân thực thái độ xúc động, nghẹn ngào khi phải giã từ Việt Bắc về xuôi.

Ta thấy nhịp thơ ở đây cũng là chính là nhịp điệu của tâm hồn. Thoáng chút ngập ngừng, bồn chồn nhớ thương bịn rịn. Cuộc chia tay lịch sử còn là cuộc chia tay giữa cá nhân với cá nhân, giữa người lính và nhân dân vùng núi rừng. Cái riêng cùng cái chung hài hòa, đan xen vào nhau một cách khéo léo.

Những kỷ niệm ngày xưa hiện về. Đó chỉ là những kỷ niệm về những gian nan vất vả nhưng đằm thắm nghĩa tình. Cuộc sống đơn sơ bình dị nhưng lại đáng quý biết bao.

“Mình đi có nhớ những ngày
.......
Hắt hiu lau xám, đậm đà lòng son”

Giọng thơ vừa hỏi han vừa gợi nhớ theo thời gian, lan tỏa theo không gian những kỉ niệm ngày đầu cách mạng. Không gian, địa điểm thể hiện từ mờ xa “mưa nguồn, suối lũ, mây mù” đến gần gũi, xác định: “chiến khu”; rồi gợi lên sức mạnh tranh đấu khi “kháng Nhật”; trải ra mênh mang với sự trải dài của không gian.

“Mình về rừng núi nhớ ai
Trám bùi để rụng măng mai để già”

đầy xúc động, như thể thiên nhiên cũng mang nỗi nhớ thiết tha hòa với lòng người ở lại. “Trám, măng” – thức ăn trong ngày thiếu thốn giờ không còn cần nữa, không còn ý nghĩa khi người đã ra đi. Câu thơ giản dị mà gợi ra mênh mông biết bao trống vắng. Rừng núi nhớ ai hay chính người dân Việt Bắc đang nhớ mong.

Khi phân tích tính dân tộc trong bài Việt Bắc, người đọc dễ dàng nhận thấy với cách nói đảo ngữ, tương phản đối lập “hắt hiu lau xám – đậm đà lòng son” càng làm bật lên ân tình cách mạng. Càng khổ cực, gian lao – bát cơm chấm muối, hắt hiu lau xám càng ngọt bùi bao kỉ niệm, đậm đà những tấm chân tình trao gửi cho nhau. Nghệ thuật nhân hóa (rừng núi nhớ ai), hàng loạt điệp tự “mình, có nhớ”, nhịp ngắt đều đặn kết hợp cùng bao nhiêu hoài niệm tha thiết nhất đều mang đến những tác dụng nhất định.

Nó thể hiện nguồn cội tình cảm sâu rộng nhất tập trung khắc họa hình ảnh một người đang bâng khuâng thương nhớ với cảm giác chưa nguôi lưu luyến trong phút chia li này

Bức tranh về con người còn hiện ra trong khúc hát của nỗi nhớ

“Nhớ gì như nhớ người yêu
.........
Mình đây ta đó, đắng cay ngọt bùi”

Âm thanh gợi một cuộc sống đầm ấm yên vui trù phú nhộn nhịp của chiến khu Việt Bắc tuy Việt Bắc là chiến khu kháng chiến nhưng cuộc sống thanh bình vẫn hiện lên bên cạnh hoạt động của nhân dân. Hiện về trong kí ức của nhân vật trữ tình là không gian bao la rộng lớn. Từ căn nhà sàn đến những nương rẫy bạt ngày từ lớp học vỡ lòng đến cơ quan, từ con suối đến cối giã trong đêm khuya.

Khi phân tích tính dân tộc trong bài Việt Bắc, người đọc nhận thấy đặc điểm nổi bật trong đoạn thơ này chính là âm thanh của núi rừng của chiến khu Việt Bắc. Đó là tiếng đọc bài ê a, là lời ca tiếng hát, tiếng trò chuyện liên hoan còn là tiếng của cuộc sống lao động- tiếng mõ đuổi trâu về, tiếng chày cối giã gạo. Nếu chỉ đọc đoạn thơ, người đọc khó nhận ra đây là một vùng đất khó khăn, phải từng giây từng phút chiến đấu với kẻ thù.

Điệp ngữ “nhớ sao” không chỉ có giá trị gợi nhắc, liệt kê nỗi nhớ mà còn tô đậm nỗi nhớ cồn cào, mãnh liệt không sao quên được. Chứng tỏ tấm lòng sâu nặng đối với Việt Bắc, nhân dân Việt Bắc. Tác giả nói về lý tưởng cách mạng, về quá trình đấu tranh gian khó ấy bằng một cách nói giàu cảm xúc.

Nhắc đến Việt Bắc không thể không nhắc đến bức tranh thiên nhiên tứ bình bốn mùa

“Ta về mình có nhớ ta
..............
Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung”

Khi phân tích tính dân tộc trong bài Việt Bắc, ta nhận ra thiên nhiên bốn mùa tươi đẹp hiện ra qua từng cặp câu lục bát. Mở đầu bức tranh tứ bình là mùa đông. Nhưng mùa đông không u ám mà lại tươi đẹp đến lạ.

“Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng”

Câu thơ “Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi” mở ra một không gian rộng lớn. Nghệ thuật điểm xuyết trong câu thơ đã đem lại hiệu quả ấn tượng khi làm hiện ra sống động trước mắt người đọc màu đỏ ấm áp, có sức lan tỏa của hoa chuối giữa bạt ngàn xanh của núi rừng.

Câu thơ sau cũng như vậy, hình ảnh điểm xuyết nổi rõ hơn khung cảnh, điểm rất nhỏ nhưng sức gợi vô cùng lớn. Sự lấp lánh của ánh dao phản chiếu sắc nắng khiến cảnh vật vốn tĩnh lặng, thậm chí tịch mịch bỗng sinh động với vẻ đẹp khỏe khoắn, mạnh mẽ của con người lao động. Tiếp đến là bức tranh thiên nhiên của màu xuân.

“Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang”

Mùa xuân không hiện ra với màu vàng của hoa mai, màu hồng của hoa đào mà hiện ra với màu trắng. Màu trắng tinh khiết của hoa mơ trở thành sắc màu chủ đạo của khu rừng màu xuân nên thơ. Thời gian được đưa lên đầu câu thơ tạo cho ta cảm giác màu trắng lan khắp thời gian và không gian.

Cách điệp âm “mơ – nở” cùng với sự rộn ràng, náo nức của thiên nhiên khi xuân đến. Màu trắng của hoa hòa với màu trắng của sợi giang trên tay người đan nón tạo nền cho con người hiện lên với vẻ đẹp giản dị mà tinh tế.

Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình’

Câu thơ đầu vừa có âm thanh rộn rã, vừa có màu sắc rực rỡ của núi rừng Việt Bắc. Hai yếu tố ấy đã tạo nên cảnh tưng bừng của thiên nhiên: màu vàng của rừng phách hòa cùng tiếng ve xao động – đặc trưng của mùa hè cộng hưởng cùng tín hiệu của mùa hè được thể hiện đầy ấn tượng, có gì đó bất ngờ xôn xao khó tả. Phân tích tính dân tộc trong bài Việt Bắc, ta thấy hình ảnh con người “hái măng một mình” thêm một lần nữa là vẻ đẹp trong sự thầm lặng và cần mẫn với công việc. Trong chuỗi hoài niệm của tác giả, hình ảnh ấy là một nét gợi nhớ sinh động và đầy xúc cảm.

“Rừng thu trăng rọi hòa bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung’

Bức tranh mùa thu với ánh sáng dịu nhẹ, huyền ảo, gợi không khí thanh bình, yên ả. Và kết lại cũng chính là hình ảnh con người thể hiện qua tiếng hát ngọt ngào dưới ánh trăng mang theo bao ước mơ tốt lành, tươi đẹp và tình cảm thiết tha ân tình, son sắt gắn bó với cách mạng.

Phân tích tính dân tộc trong bài Việt Bắc, người đọc nhận thấy tác giả đã chọn lọc phác họa hình ảnh những con người lao động tuy xuất hiện thấp thoáng nhưng đầy sức gợi. Đó là hình ảnh người đi rẫy, người đan nón, hái măng, một tiếng hát khi lao động hay trong một đêm sinh hoạt văn nghệ. Nỗi nhớ khi thì hướng đến một đối tượng cụ thể “nhớ người đan nón”, “nhớ cô em gái”, khi thì hướng về một đối tượng chung chung “nhớ ai tiếng hát” song lại chứa chan niềm nhớ thương về những bóng hình gần gũi thiết thân, về những con người lao động cần cù, có tấm lòng son sắt thủy chung với cách mạng. Trong mỗi khung cảnh thiên nhiên, khung cảnh sinh hoạt con người đều chan chứa tình cảm, kỷ niệm.

Tính dân tộc trong bài thơ việt bắc không chỉ thể hiện về mặt nội dung mà còn được thể hiện rõ nét hơn về mặt nghệ thuật. Thứ nhất, tinh thần dân tộc được thể hiện bằng thể thơ dân tộc, thể lục bát thấm nhuần tinh thần dân tộc từ ngàn đời nay. Nó là linh hồn của nhiều câu ca dao, dân ca của nhân dân lao động.

“Thân em như tấm lụa đào
Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai”

Vẫn còn nội dung phía dưới, bạn hãy ấn nút để xem tiếp nhé...